Cấp cứu về mắt
Chấn thương mắt thường gặp trong cuộc sống hàng ngày xảy ra bất ngờ, đến từ những sự việc rất tình cờ trong sinh hoạt. Các loại chấn thương về mắt cần được đưa đi cấp cứu để các bác sĩ kịp thời xử lý và chữa trị.
Bệnh viện Mắt Alina là bệnh viện tiêu chuẩn quốc tế với mức giá phù hợp cho người Việt Nam, là địa chỉ khám, điều trị các bệnh về kết mạc, giác mạc mắt uy tín cho người dân Hưng Yên và các tỉnh phía Bắc.
Theo kết quả thu thập dữ liệu năm 2005, mộng thịt trong mắt là một bệnh phổ biến ở vùng nhiệt đớt nhiệt đới như Việt Nam với tỷ lệ mắc mộng một mắt từ 5,2% - 19,56%, tỷ lệ mộng thịt hai mắt là 7,99%. Sự phát hiện của mộng thịt là do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thường xuyên và đặc biệt là với tia cực tím. Một số nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ xuất hiện mộng thịt liên quan đến: tuổi tác, giới tính và vị trí công việc.
Mộng thịt hay mộng mắt là một hình chêm tam giác của mô xơ kết mạc nhãn cầu ở góc trong hoặc góc ngoài mắt từ rìa hướng vào trung tâm giác mạc. Đôi khi mộng mắt có mà là hình thang, phát triển khi mắt thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng chói chang và gió. Điều này thường xảy ra ở những người dành nhiều thời gian ở ngoài trời trong điều kiện nắng và gió, đặc biệt là những người lướt sóng. Do đó, tên gọi khác của tình trạng này - Surfer’s Eye.
Mộng thịt là loại u lành tính, một tình trạng thường vô hại ảnh hưởng đến ‘da’ của mắt (kết mạc), thường là ở phía gần mũi nhất đôi khi được xem là một vấn đề nhỏ vì nó không có khả năng đe dọa thị lực. Tuy nhiên, khi bệnh phát triển nhanh có thể khiến thị lực của bạn bị suy giảm và xâm lấn vào trục thị giác gây ảnh hưởng tới tầm nhìn và thị lực. Sự phát triển cũng có thể làm sai lệch hình dạng của giác mạc, gây ra các vấn đề về thị lực (ví dụ như loạn thị).
Một hoặc cả hai mắt có thể bị ảnh hưởng và bệnh này phổ biến hơn ở những người từ 20 đến 40 tuổi. Đàn ông thường có nhiều khả năng bị mộng thịt hơn phụ nữ.
Chẩn đoán mộng thịt thường đơn giản bằng cách sử dụng đèn khe.
Mộng thịt có thể khó nhận biết trong nhiều năm, hoặc nó có thể bị nhầm là kích ứng chung của mắt. Khi tiến triển, nó có thể bắt đầu lan rộng trên giác mạc. Các triệu chứng phổ biến bao gồm:
Một số người bị mộng thịt có thể cảm thấy khó khăn khi đeo kính áp tròng, trong khi những người khác, về mặt thẩm mỹ, không thích các mộng thịt trên mắt và có thể tìm cách điều trị phẫu thuật để loại bỏ nó.
Trong nhiều trường hợp, điều trị mộng thịt bao gồm việc sử dụng thuốc nhỏ mắt đơn giản để kiểm soát các triệu chứng, chẳng hạn như viêm, đau nhẹ, ngứa hoặc cảm giác có sạn trong mắt. Điều trị kích ứng nhẹ bao gồm thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc mỡ giúp bôi trơn và làm dịu giác mạc. Đối với tình trạng viêm nặng, bạn có thể được chỉ định dùng một đợt thuốc nhỏ mắt steroid trong thời gian ngắn. Những loại thuốc này chỉ làm dịu các triệu chứng, không phải là thuốc chữa bệnh.
Nếu mộng thịt phát triển đáng kể và tiếp tục lan rộng trên giác mạc hoặc gây ra các vấn đề khác, việc cắt bỏ mộng thịt thường được khuyến nghị để loại bỏ các triệu chứng liên quan và tránh các tác động xấu đến thị lực. Một số người chọn phẫu thuật mộng thịt vì lý do thẩm mỹ. Sử dụng kỹ thuật vi phẫu thuật hiện đại, bác sĩ phẫu thuật sẽ cẩn thận loại bỏ mộng thịt và thay vào đó là ghép mô lành lấy từ cùng mắt, cố định vào vị trí.
Có khả năng tình trạng này có thể tái phát sau khi phẫu thuật, nhưng quá trình phẫu thuật có thể giúp ngăn ngừa việc tái phát.
Khi ở ngoài trời, hãy đeo kính râm chất lượng tốt, bao quanh theo khuyến cáo của bác sĩ đo thị lực. Chọn kính râm đáp ứng Tiêu chuẩn Úc và có chỉ số UV EPF là 9 hoặc 10.
Những người lướt sóng và những người khác tham gia vào các môn thể thao dưới nước nên thường xuyên đeo kính râm trong các hoạt động này.
Mũ rộng vành cũng sẽ bảo vệ mắt bạn khỏi nắng và gió.
Hội chứng khô mắt đang là căn bệnh phổ biến, với những người có thời gian tiếp xúc với máy tính trong thời gian dài.
Thông thường, một lớp màng nước mắt bao phủ bề mặt của mắt để giữ ẩm và các tuyến meibomian trong mí mắt tiết ra dầu để làm chậm sự bay hơi của những giọt nước mắt này. Khô mắt xảy ra khi tuyến lệ không sản xuất đủ nước mắt hay có sự bất thường trong thành phần nước mắt và không dàn đều trên bề mặt nhãn cầu một cách hiệu quả hoặc nước mắt bay hơi quá nhanh. Nước mắt giúp làm sạch, cấp ẩm và nuôi dưỡng bề mặt mắt cũng như bảo vệ mắt khỏi nhiễm trùng. Chất lượng và số lượng nước mắt được duy trì để đảm bảo bề mặt nhãn cầu khỏe và sạch sẽ. Khô mắt có thể dẫn đến tổn thương bề mặt nhãn cầu, tăng nguy cơ nhiễm trùng thậm chí có thể dẫn đến tổn thương thị lực vĩnh viễn nếu không điều trị. Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Rối loạn chức năng tuyến Meibomian (MGD), nơi các tuyến không hoạt động bình thường do tắc nghẽn hoặc thiếu dầu, là nguyên nhân hàng đầu gây khô mắt.
Những người khác biệt gặp khó khăn trong việc đọc, sử dụng máy tính, xem TV và lái xe. Ở dạng nghiêm trọng nhất, khô mắt có thể đi kèm với viêm bề mặt mắt, rối loạn giấc ngủ và trầm cảm. Các tác động bất lợi (thể chất, tình cảm, tài chính) có thể khá đáng kể. Nếu không được điều trị, một số người có thể bị loét giác mạc, sẹo giác mạc và thậm chí là mất thị lực.
Bệnh khô mắt thường bị nhầm lẫn với các tình trạng khác, cụ thể là dị ứng. Có thể khó chẩn đoán vì các triệu chứng khác nhau, mang tính chủ quan và có thể được mô tả theo nhiều cách khác nhau như “có cộm ở mắt”, “có gì đó trong mắt”
Tình trạng này không thể chữa khỏi, nhưng các phương pháp điều trị hiện tại sẽ giúp làm giảm các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Bệnh khô mắt được phát hiện và bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt.
Các bác sĩ nhãn khoa sử dụng kết hợp các xét nghiệm để chẩn đoán khô mắt, bao gồm:
[caption id="attachment_251" align="aligncenter" width="1024"] Old Thai woman massages the eye socket because of eye pain. Health care concept.[/caption]
Điều quan trọng các bệnh nhân cần biết là bệnh khô mắt không thể chữa khỏi - cần phải điều trị liên tục. Chẩn đoán và điều trị sớm có thể ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh.
Viêm bề mặt của mắt thường liên quan đến bệnh khô mắt. Các trường hợp không được điều trị có thể gây đau, loét giác mạc, sẹo giác mạc và có khả năng mất thị lực, mặc dù hiếm gặp.
Điều trị có thể bao gồm các biện pháp sau để làm giảm các triệu chứng và ngăn ngừa các biến chứng:
Điều trị khô mắt bằng ánh sáng xung cường độ cao và xung nhiệt. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng vẫn chưa được xác định. Tác dụng của các liệu pháp thay thế hormone và chống lão hóa trên các tuyến meibomian cũng đang được nghiên cứu, với hy vọng tìm ra các phương pháp điều trị mới.
Viêm kết mạc còn được gọi là đau mắt đỏ,viêm kết mạc mãn tính… Bệnh thường xảy ra ở trẻ em nhưng bất kỳ lứa tuổi nào cũng có thể mắc bệnh và rất dễ lây lan qua các vật dụng sinh hoạt cũng như qua đường hô hấp nên thường phát triển thành dịch.
Màng lót mí mắt và phần trắng của mắt (củng mạc) được gọi là kết mạc. Khi kết mạc bị sưng, bị kích thích hoặc bị nhiễm trùng, đây được gọi là viêm kết mạc.
Khi các mạch máu nhỏ trong kết mạc bị viêm, chúng sẽ sưng lên và nổi rõ hơn, điều này khiến mắt có màu đỏ. Triệu chứng viêm kết mạc phổ biến này là lý do tại sao tình trạng này thường được gọi là đau mắt đỏ hoặc mắt đỏ.
Viêm kết mạc là một rối loạn phổ biến và thường không nghiêm trọng. Tuy nhiên, bất kỳ em bé sơ sinh nào bị viêm kết mạc nên đến gặp bác sĩ ngay lập tức để loại trừ nhiễm trùng, có thể rất nghiêm trọng
Thời gian ủ bệnh (kể từ khi bị nhiễm đến khi bị bệnh) phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh có thể từ vài ngày đến vài tuần. Mới ban đầu triệu chứng của bệnh chỉ là ho, sốt, mệt, nóng rát mắt, đau, có cảm giác cộm mắt, nhìn mờ, mi mắt sưng nhẹ…5-7 ngày sau thì một bên mắt bị đỏ, ra gỉ, chảy nước mắt, 3-5 ngày sau sẽ lây sang mắt còn lại. Các triệu chứng viêm kết mạc có thể ảnh hưởng đến một hoặc cả hai mắt và dễ nhận biết với các triệu chứng bao gồm:
Có một số nguyên nhân gây ra viêm kết mạc bao gồm vi rút, nhiễm trùng do vi khuẩn, dị ứng, chấn thương hóa chất, dị vật trong mắt, sử dụng kính áp tròng trong thời gian dài ở người lớn và ở trẻ sơ sinh, tắc ống lệ. Nguyên nhân ít phổ biến hơn là do chlamydia và ký sinh trùng.
Viêm kết mạc thường gặp ở trẻ em trong độ tuổi đi học vì các loại virus và vi khuẩn có thể dễ dàng lây truyền từ người này sang người khác.
Viêm kết mạc do vi rút và vi khuẩn
Viêm kết mạc dị ứng
Viêm kết mạc do chấn thương
Viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh
Viêm kết mạc do virus
Viêm kết mạc dị ứng
Nếu người thân quanh bạn đang bị viêm kết mạc, hãy tránh tiếp xúc với họ. Trẻ em bị viêm kết mạc không nên đi học cho đến khi chúng hồi phục hoàn toàn. Vệ sinh tốt là vô cùng quan trọng, vì nó sẽ giúp ngăn ngừa sự lây lan của bệnh viêm kết mạc. Một số gợi ý bao gồm:
Các biến chứng là rất hiếm, nhưng các trường hợp viêm kết mạc nặng đôi khi có thể dẫn đến sẹo ở mắt. Viêm kết mạc nhiễm trùng có thể lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể, có thể gây ra nhiễm trùng thứ cấp nghiêm trọng hơn như viêm màng não. Nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào cho thấy bạn có thể đang bị viêm kết mạc, hãy đến gặp bác sĩ hoặc chuyên gia đo thị lực.
Người ta ước tính rằng có tới 8 triệu người bị mù vĩnh viễn do bệnh mắt hột, và 84 triệu người nữa cần được điều trị nếu muốn ngăn chặn được tình trạng mù lòa.
Đau mắt hột là một bệnh nhiễm trùng mắt do vi khuẩn có thể dẫn đến mù lòa. Nó biểu hiện như tình trạng viêm mãn tính của kết mạc - mô bên ngoài lót mí mắt và lòng trắng của mắt. Bệnh mắt hột là nguyên nhân gây mù lòa truyền nhiễm hàng đầu trên thế giới hiện nay.
Tình trạng viêm do nhiễm trùng mắt hột dẫn đến kết mạc bị sẹo và thô ráp, cản trở chức năng tự bôi trơn của mắt để bảo vệ mô phía trước rõ ràng của mắt - giác mạc. Khi bệnh tiếp tục phát triển, giác mạc tự trở thành sẹo. Các mạch máu bất thường bắt đầu phát triển vào vết sẹo , gây giảm thị lực và trong một số trường hợp, mù lòa.
Trong giai đoạn nặng của tình trạng này, mí mắt có thể bị sẹo đến mức quay vào trong, buộc các sợi mi cọ xát vào giác mạc gây tổn thương và đau mắt.
Đau mắt hột là một bệnh truyền nhiễm, dễ dàng lây lan từ người này sang người khác - bằng cách tiếp xúc trực tiếp, chẳng hạn như chạm vào các chất tiết ra nhiễm bệnh từ mắt, mũi hoặc miệng hoặc do tiếp xúc gián tiếp, như chạm vào các vật dụng bị nhiễm bệnh (khăn trải giường, quần áo, khăn tắm, v.v.). Nó cũng có thể lây lan do ruồi nhặng. Bệnh mắt hột do một dòng vi khuẩn Chlamydia Trachomatis đặc biệt gây ra (một dòng vi khuẩn khác của cùng một loại vi khuẩn gây ra bệnh hoa liễu thường được gọi là chlamydia. Điều quan trọng cần lưu ý là bệnh mắt hột không phải là bệnh lây truyền qua đường tình dục).
Trong thế kỷ 20, bệnh đau mắt hột đã biến mất khỏi các nước phát triển nhưng nó vẫn còn lưu hành ở các vùng của châu Phi và châu Á. Nó vẫn còn phổ biến ở nhiều cộng đồng thổ dân xa xôi, nơi tỷ lệ lây nhiễm từ 2 đến 50 phần trăm.
Các triệu chứng không bắt đầu xuất hiện cho đến 5-12 ngày sau khi bạn thực sự bị nhiễm bệnh. Các triệu chứng ban đầu bao gồm:
Nếu không được điều trị, hoặc nếu nhiễm trùng tái phát nhiều lần, các triệu chứng lâu dài hơn bao gồm:
Bệnh mắt hột thường gặp nhất ở các nước nghèo và đang phát triển. Nguyên nhân là do vệ sinh không đúng cách và thiếu giáo dục về vệ sinh cá nhân sạch sẽ (đặc biệt liên quan đến rửa mặt), khu vực sống đông đúc, nguồn cung cấp nước sạch khan hiếm, ruồi sinh sôi trong phân người hoặc động vật, tắm trong nước không sạch và nhà ở không vệ sinh. Trẻ em trước tuổi đi học dễ mắc bệnh nhất. Bất kỳ ai tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh cũng có thể có nguy cơ bị lây nhiễm bệnh.
Bệnh đau mắt hột được chẩn đoán bởi bác sĩ nhãn khoa, người sẽ tiến hành kiểm tra mắt bệnh nhân, xem bệnh sử của họ, và đôi khi lấy một miếng gạc mắt để kiểm tra trong phòng thí nghiệm.
Như với tất cả mọi căn bệnh, phòng ngừa là chìa khóa để tránh bị mắc và lây nhiễm. Với mục tiêu loại trừ bệnh mắt hột vào năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra một chiến lược liên quan đến sự kết hợp của các biện pháp can thiệp để giúp ngăn ngừa lây nhiễm trong các cộng đồng nơi bệnh đau mắt hột còn tồn tại. Phương pháp tổng hợp này là Phẫu thuật điều trị bệnh trichiasis (lông mi mọc ngược), Thuốc kháng sinh, Vệ sinh da mặt và Cải thiện môi trường.
Người dân có thể phòng tránh bằng các biện pháp đơn giản, dễ thực hiện như sau: luôn luôn rửa sạch tay mỗi khi lao động hay tiếp xúc với môi trường đất, nước bẩn; mọi người chú ý tập thói quen không dụi tay bẩn lên mắt. Sử dụng kính khi đi đường tránh gió bụi vào mắt; rửa mặt bằng khăn mặt riêng; không sử dụng nước ao hồ để tắm rửa, tránh để nước bẩn bắn vào mắt; thường xuyên làm vệ sinh môi trường, diệt ruồi nhặng, gián, chuột; khi mắc bệnh phải điều trị bảo đảm thời gian theo hướng dẫn của bác sĩ,...
Chấn thương mắt thường gặp trong cuộc sống hàng ngày xảy ra bất ngờ, đến từ những sự việc rất tình cờ trong sinh hoạt. Các loại chấn thương về mắt cần được đưa đi cấp cứu để các bác sĩ kịp thời xử lý và chữa trị.
Đôi mắt con người theo thời gian sẽ dần bị lão hóa bởi các yếu tố như tuổi tác, tác động của môi trường (nắng, gió, ô nhiễm), tiếp xúc quá nhiều với ánh sáng xanh từ màn hình các thiết bị điện tử hoặc do chế độ sinh hoạt không lành mạnh.
Các bệnh về kết mạc và giác mạc phổ biến như mộng thịt, khô mắt hay viêm giác mạc. Bệnh viện Mắt Alina là bệnh viện tiêu chuẩn quốc tế với mức giá hợp lý, là địa chỉ khám, điều trị các bệnh về kết mạc, giác mạc mắt uy tín.
Khi nhận được ánh sáng, võng mạc sẽ truyền tín hiệu đến não thông qua hệ thống thần kinh thị giác, từ đó não bộ sẽ cho ý thức về vật chúng ta đang nhìn thấy. Do vậy võng mạc được coi là một trong những bộ phận quan trọng nhất.
Nguyên nhân của sự gia tăng tỉ lệ người mắc tật khúc xạ có thể đến từ sự phát triển vượt bậc của công nghệ, thời gian hoạt động nhìn gần nhiều với các thiết bị điện tử, đặc biệt hơn, trẻ em tiếp xúc với thiết bị điện tử ngày càng sớm.
Từ năm 40 tuổi trở đi, việc thay đổi thị lực của bạn là điều bình thường và nguy cơ mắc một số bệnh về mắt cũng bắt đầu tăng lên. Một số bệnh lý về mắt không có triệu chứng rõ ràng cho đến khi chuyển sang giai đoạn nặng.
Glôcôm đặc trưng bởi sự chết dần của tế bào hạch võng mạc (khởi nguồn của thần kinh thị giác để dẫn tín hiệu hình ảnh từ mắt về não bộ) dưới ảnh hưởng của nhãn áp cao, dao động nhãn áp hoặc thiểu năng tuần hoàn do bệnh lý mạch máu.
Đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân gây mù loà phổ biến nhất trên thế giới. Đục thủy tinh thể chủ yếu được chẩn đoán ở những người trên 60 tuổi nhưng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi (một số trẻ thậm chí có thể bị đục thủy tinh thể bẩm sinh).